Chữ Hỷ Tiếng Trung | Cách Viết & Treo Song Hỷ

Chữ Hỷ trong tiếng Trung thường xuất hiện trong đám cưới, đám tiệc và các dịp lễ khác. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu được ý nghĩa, cách sử dụng, cách dán áp phích và viết đúng chính tả của chữ Hỷ. Biết được điều này, hôm nay Tiếng Trung Hanzi sẽ giới thiệu đến các bạn những điều thú vị liên quan đến chữ “喜” trong tiếng Trung.

Chữ Hỷ tiếng Trung là gì?

Chiết tự chữ Hỷ là 喜  / xǐ / và chữ song hỷ 囍 là 2 chữ hỷ và được ghép lại đọc phiên âm tiếng Hoa là 双喜  / shuāngxǐ /.

Chữ hỷ 喜 được cấu thành từ bộ sĩ 士  / shì / nghĩa là kẻ sĩ , 2 bộ khẩu 口  / kǒu / nghĩa là cái miệng, bộ bát 八  / bā / nghĩa là số 8, bộ nhất 一  / yī / nghĩa là số 1.

Các bộ này được cấu tạo theo nguyên tắc từ trên xuống, từ trái qua phải và từ trong ra ngoài, có nghĩa là vui nhộn.

Cách viết chữ Hỷ

Chữ Hỷ 喜 / xǐ / bao gồm 12 nét. Dưới đây là cách viết từng nét.

chữ hỷ tiếng trung
chữ hỷ tiếng trung

Ý nghĩa và nguồn gốc chữ song hỷ đám cưới

Chữ Hỷ 喜  / xǐ / về cấu tạo, nó là một chữ hội ý kết cấu trên dưới, phía trên là TRÚ 壴  / zhù / kết hợp với bộ KHẨU 口  / kǒu / bên dưới.

Chữ 壴  / zhù /: Đây là một chữ tượng hình diễn tả một cái trống, ở giữa là mặt trống, trên mặt trống có vật trang trí và ở dưới là đế trống. Nguồn gốc của chữ Cổ 鼓  / gǔ / (cái trống, đánh trống) hiện nay do chữ Trú 壴 / zhù / tạo nên. Trong cổ văn 鼓 miêu tả một bàn tay cầm dùi đánh vào mặt trống. TRÚ 壴 là loại nhạc cụ dạng trống dùng trong lễ hội, ca múa.

Bộ KHẨU 口  / kǒu /: Miệng, tượng trưng cho lời hát, lời chúc mừng. Như vậy HỶ 喜 là tay đánh trống, miệng hò reo chúc mừng, HỶ 喜 có nghĩa là việc tốt lành, việc vui mừng.

Từ 囍 Song có nghĩa là hai niềm vui lớn. Từ “hạnh phúc nhân đôi” thường được gắn với ý nghĩa hạnh phúc nhân đôi trong đám cưới, đám cưới là một sự kiện trọng đại, vô cùng hạnh phúc. Vì vậy, hãy dùng từ này như một lời cầu chúc cho sự hòa thuận và hạnh phúc vĩnh cửu cho đôi vợ chồng trẻ. Thêm nữa, sau đám cưới, niềm vui như được nhân lên (gia đình sắp đón thêm một thiên thần nhỏ đến với thế giới).

Nguồn gốc của chữ song hỷ đám cưới

Tục treo chữ Hỷ có nguồn gốc từ Trung Quốc và vẫn được viết bằng chữ Hán khi du nhập vào Việt Nam.
 

Trong đám hỏi, đám cưới của người Việt, do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên chữ hỷ màu đỏ xuất hiện rất nhiều, từ thiệp mời đám cưới, đám hỏi cho đến thiệp mời đám cưới đều không phải là một chữ mà là chữ “囍”. Hộp bánh cốm, chè cốm, hạt sen, miếng cau, lá trầu… Có khi treo chữ phúc ở nhà, trong ngõ để thông báo đám cưới cho mọi người. Bởi theo quan niệm xưa, song hỷ có ý nói lên hai niềm vui lớn: Đại Đăng Khoa – thi đỗ làm quan và Tiểu Đăng Khoa – lấy vợ.

Ngày nay, hai chữ này tượng trưng cho niềm vui và lời chúc phúc của đôi uyên ương từ hai bên gia đình, trai gái. Từ “Hỷ” (囍) trong đám cưới là sự kết hợp của hai từ “Hỷ” (vui vẻ), được gọi là (喜) là hai, là niềm vui. Khi ghép lại với nhau, hai niềm vui có nghĩa là niềm vui nhân đôi.
 

Ngoài ra, cụm từ “Song hỷ lâm môn” 双喜临门 [Shuāng xǐlínmén] cũng được dùng nhiều trong đám cưới của người Việt Nam hiện nay, đặc biệt là trong đám cưới của người Hoa. Câu này thể hiện niềm vui nhân đôi khi đã tới cửa, đồng thời có nghĩa là ngày hạnh phúc lứa đôi không thể tuyệt vời hơn.

Xem thêm:   Download Sách Hack Não 1500 File PDF Phiên bản Mới

Từ trước đến nay, chữ Hỷ đã trở thành một phong tục không thể thiếu trong đám cưới của người Việt Nam chúng ta. Từ “song hỷ” trong đám cưới gắn liền với một giai thoại đẹp, một câu chuyện đầy may rủi, vận mệnh và thi cử của Vương An Thạch, một nhà thơ nổi tiếng thời Tống, một trong “Đường Tống bát đại gia”.

Chuyện kể như sau: Vương An Thạch ngay từ nhỏ đã học giỏi, năm 20 tuổi rời quê hương khoảng 200 dặm đến kinh đô dự thi. Dọc đường Vương An Thạch đi qua một vùng giàu có. Gia đình Mã Viện trong vùng đang chọn chồng cho cô con gái xinh đẹp. Nhà ngoại là người có học nên muốn chọn người con rể giàu chữ nghĩa như hiền sĩ chứ không phải nhiều tiền.

chữ hỷ tiếng trung
chữ hỷ tiếng trung

Khi Vương An Thạch đi qua, cũng là lúc bà nội Nguyên đang tổ chức tiệc sinh nhật. Trong nhà treo đèn, hoa đẹp, khách ra vào đông như trẩy hội. Ngoài cửa treo những chiếc đèn lồng lớn, người qua đường vừa xem vừa bàn tán xôn xao. Vương An Thạch ngạc nhiên nên dừng lại nhìn, thấy đối diện treo một chiếc đèn lồng:

走马灯,灯走马,灯熄马停蹄  / Zǒumǎdēng, dēng zǒumǎ, dēng xī mǎ tíng tí /
“Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ” (nghĩa là gựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng.)

Vương An Thạch suy nghĩ hồi lâu cũng không tự mình xử lý được, nhưng vẫn kiên quyết nói: “Câu này dễ giải quyết”, sau đó rời đi. Gia đình của Mã Viên ngoại đã nghe về điều đó, và trước khi gia nhân có thể báo cáo với Viên ngoại thì Vương An Thạch đã lên đường lên kinh đô.

Tại trường thi, Vương An Thạch đã hoàn thành bài thi và giao nộp bài đầu tiên. Vị thẩm phán quay lại nhìn, khen ngợi tài năng, trả lời trôi chảy các câu hỏi và có ý lấy ông đỗ đầu. Vua mời ông vào triều để xem mặt và thử tài. Thấy ở tọa rồng có một tấm cờ thêu hình hổ, vua bèn ban cho làm thơ đáp:

Xem thêm:   Thả diều tiếng Trung là gì? Trò chơi dân gian | Giải trí 2022

飞虎旗,旗飞虎,旗卷虎藏身  / Fēi hǔ qí, qí fēi hǔ, qí juǎn hǔ cángshēn /
“Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân (Tức hổ bay theo cờ, cờ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ ẩn mình).

Vương An Thạch chợt nhớ đến câu trái nghĩa trên chiếc đèn kéo quân trước cửa nhà Mã Viện, thấy tiếng động, ý nói rất hay, rất đúng, liền đọc to câu: “Tấu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ ”. Vua và giám khảo thấy Vương An Thạch đối đáp nhanh, rất đúng và có ý nghĩa nên phong Vương An Thạch làm thủ khoa cho kỳ thi.

Trong khi chờ đợi tên mình được gắn vào bảng vàng, Vương An Thạch đã trở về quê hương của mình. Khi đi ngang qua Mã Văn, gia đình mẹ của Mã Văn nhận ra rằng Vương An Thạch đã nói những lời trên đèn lồng rất dễ đối phó, nên mời Vương vào nhà để trình bày với mẹ của Mã Văn. Mã Văn yêu cầu Vương An Thạch đối đáp, và nhà Vương đã đọc câu của nhà vua ra:

“Tẩu mã đăng, đăng tẩu mã, đăng tức mã đình bộ;
Phi hổ kỳ, kỳ phi hổ, kỳ quyển hổ tàng thân.”

chữ hỷ tiếng trung
chữ hỷ tiếng trung

Bà của Mã Văn rất vui khi thấy đối phương rất khôn khéo và bóng gió khoe tương lai của mình, bà nói với Vương An Thạch: “Vế đối dán trên đèn kéo quân là của con gái lão, nó kén chồng nên thách đối như thế, nếu ai đối được nó mới đồng ý lấy làm chồng. Để lão gọi con gái lão ra cho hai đàng giáp mặt. Sau đó đám cưới được tổ chức linh đình tại Mã gia trang”.

Vương An Thạch cưới một người vợ tài giỏi, giàu có và sống ở nhà bà ngoại Mã Viện. Cùng ngày, triều đình cho dựng bảng báo, Vương An Thạch đỗ trạng nguyên, được triều đình triệu về kinh đô nhậm chức. Vậy là Vương may mắn có được hai điều hạnh phúc: lấy được vợ và đỗ Trạng nguyên. Vương An Thạch phấn khích khịt mũi:

“Vận may đối đáp thành song hỷ,
Cờ hổ, đèn quân kết vợ chồng.”

Sau đó lấy một tờ giấy, viết hai chữ hỷ rất lớn, dâng lên nhạc sĩ, và gửi đến từng gia đình. Thông báo hai điều rất may mắn và tốt lành: Đại Đăng Khoa (thi đỗ) và Tiểu Đăng Khoa (lấy vợ).

Bằng cách viết hai chữ hỷ đám cưới liên tiếp đọc là “song hỷ”, vị trạng nguyên nổi tiếng đã đặt ra một từ mới, từ song hỷ. Vì vậy, nguồn gốc của chữ song hỷ là do truyền thuyết lấy được người vợ xinh đẹp tài đức và thi đỗ trạng nguyên.

Xem thêm:   Cẩu lương là gì? Ăn cơm chó trong tiếng Trung

Chữ Hỷ trong đời sống người Việt Nam hiện nay

Ngày nay, chữ song hỷ vẫn là hình ảnh quen thuộc trong các đám cưới của người Việt. Với ý nghĩa cao đẹp, chữ hỷ luôn đứng vững trong lòng các đôi tân lang tân nương. Chúng như thể hiện mong muốn của hai bên gia đình về một cuộc sống hôn nhân viên mãn, hạnh phúc cho đôi tân lang tân nương.

chữ hỷ tiếng trung
chữ hỷ tiếng trung

Không chỉ vậy, song hỷ còn xuất hiện trong những thiệp mời tinh tế, hộp bánh chưng, chè khúc bạch, hạt sen, cau cau, lá trầu và các loại phông cưới khác, trong đó thiệp cưới của song hỷ luôn là lựa chọn hàng đầu của các tân lang tân nương. Tạo ấn tượng đầu tiên cho những vị khách quý của bạn. Nhiều người cho rằng chữ phúc còn có nghĩa là hai thú vui song hành, nhà trai gả con trai cho con trai, nhà gái gả chồng cho con gái.

Cách treo chữ Hỷ

Chữ Hỷ có thể được treo trên phông bạt trong đám cưới, trên đầu giường phòng tân hôn, hai bên tường phòng khách, trên mâm quả cưới, ô cửa, xe cô dâu … Nên giữ cố định khi treo, không bị lộn ngược.

Mặc dù vẫn có người cho rằng nếu chữ hỷ trong tiếng Hán có thể đảo ngược lại để biểu thị rằng hạnh phúc đang đến, thì chữ hỷ cũng có nghĩa là hạnh phúc đang đến. Tuy nhiên, hầu hết mọi người sẽ không treo ngược, nhưng nó không phải là tuyệt đối. Ví dụ, ở Trung Quốc cổ đại, có truyền thống “tảo hôn”, vì người chết chưa kết hôn không được vào mộ tổ tiên, nên những người chết trước khi kết hôn phải “kết hôn” nếu muốn vào mộ tổ tiên. . “. Theo truyền thuyết, người kết hôn đầu tiên là con trai của Tào Tháo là Tào Xung. được dùng để chỉ đám cưới “địa ngục”, nhưng chữ Hỷ lúc bấy giờ vẫn là chữ “độc hỷ” cho đến sau này được Vương An Thạch thời Bắc Tống dùng chữ “song hỷ” (囍) được tạo ra, nhưng chữ “hi” ngược của Minh Hồn cũng được đổi thành chữ “囍” ngược.

Có nhiều người cho rằng chữ “song hỷ” không được dán ngược, vì như vậy sẽ mang lại xui xẻo. Dán chữ hỷ theo phong thủy có thể mang lại đại cát cho gia đình, nhất là trong ngày cưới.

Trên đây là những kiến ​​thức liên quan đến chữ “Hỷ” trong tiếng Trung. Hy vọng bài viết này có thể giúp các bạn, đặc biệt là những bạn đang muốn tìm hiểu văn hóa Trung Quốc có được những thông tin hữu ích. Cảm ơn bạn đã dành thời gian xem lại tài liệu, chúc bạn học tiếng Trung thật may mắn.

Liên hệ ngay với Tiếng Trung Hanzi để được tư vấn các khóa học tiếng Trung giao tiếp từ sơ cấp đến nâng cao cho học viên.